Đào tạo lao động cho doanh nghiệp:

Bài toán đang tìm lời giải

Chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao của nước ta vẫn được đánh giá là thấp. Các doanh nghiệp qua thời chỉ lo đào tạo lại nhân lực cho mình để đạt đến việc chú trọng đầu tư cho nhân lực ngay từ ban đầu.Việc “bắt tay” giữa các doanh nghiệp và tổ chức giáo dục sẽ mang lại những lợi ích cụ thể và thiết thực .Theo đánh giá của Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường, năng lực khoa học – công nghệ quốc gia nói chung của nước ta còn thấp và quy mô nhỏ bé.

Điều tra tiềm lực KH&CN của Bộ KH&CN cũng cho thấy tuổi đời của cán bộ khoa học khá cao, trong đó giáo sư và phó giáo sư gần 60 tuổi, số dưới 50 tuổi chỉ có 12%. Số lượng tiến sĩ là hơn 10.000 người nhưng trình độ so với chuẩn quốc tế rất thấp. Chỉ có khoảng 25% số cán bộ khoa học có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh. Đặc biệt là thiếu các chuyên gia và tổng công trình sư. Tự động hóa vẫn được coi là nhóm ngành thiếu nhân lực trầm trọng nhất. Hầu hết các trường đào tạo kỹ thuật đều có ngành này nhưng hiện trên cả nước chỉ có 5000 người làm việc trong lĩnh vực này. Tiếp theo là ngành công nghệ sinh học và các nhóm ngành khác cũng không mấy khả quan hơn.

Doanh nghiệp phải vào cuộc:

Hiện trong nước đang có hai khu công nghệ cao (Khu CNC) cấp quốc gia: Hòa Lạc (Hà Nội) và TP HCM. Gần đây thành phố Đà Nẵng cũng bắt tay vào xây dựng khu công nghệ cao với diện tích hơn cả nghìn héc-ta và có vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng. Như vậy nhu cầu nguồn nhân lực cho các khu công nghệ cao là rất lớn, đặc biệt là những lao động có chất lượng và trình độ tay nghề cao.

Mục tiêu ngành giáo dục đề ra là đến năm 2020, các trường đại học Việt Nam cần tuyển sinh 30.000 sinh viên ngành công nghệ thông tin, 25.000 - ngành công nghệ sinh học, 25.000 - ngành công nghệ vật liệu và 25.000 - ngành công nghệ tự động hóa. Bên cạnh đó, các trường phải đào tạo 28.000 người trình độ sau đại học về những lĩnh vực này. Với kế hoạch năm 2020 nhà máy điện hạt nhân sẽ hoạt động thì nhân lực cho ngành này phải có ít nhất 2.400 chuyên gia và kỹ sư.

Tuy nhiên vấn đề mà các doanh nghiệp tỏ ra lo ngại nhất hiện nay chính là chất lượng của nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp muốn có nguồn lao động thì buộc phải tự mình đào tạo lại. Công ty Intel đã tuyển hàng trăm kỹ sư Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi tuyển xong phải đưa qua các nhà máy tại Mỹ, Malaysia...v.v để đào tạo lại từ 1,5 - 2 năm mới đáp ứng được yêu cầu làm việc. Đến năm 2010, mỗi quý công ty này sẽ tuyển khoảng 300 kỹ sư công nghệ thông tin. Thế nhưng cái khó mà Intel đang gặp phải là nhân lực tuyển thêm không chỉ chuyên môn còn yếu mà khả năng ngoại ngữ chưa đạt, kỹ năng làm viêc theo nhóm còn yếu. Và trong tương lai, để giảm bớt chi phí đào tạo sau tuyển dụng, Intel đang bàn tính đến chuyện sẽ thu hút sinh viên Việt Nam đang du học về nước làm việc thay vì tuyển chọn trực tiếp nguồn lao động sẵn có trong nước.

“Chương trình học của các trường quá khác so với thực tế. Bởi vậy, chúng tôi luôn tốn thêm một khoảng thời gian để đào tạo lại sinh viên, rèn luyện cho họ những kiến thức và kĩ năng cần thiết, sau đó mới sử dụng được”. Ông Lê Hồng Hải, trưởng phòng phần mềm số 2, Công ty phần mềm FPT nhận định.

Ông Nguyễn Minh Khang, Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghệ MK cũng cho rằng việc đào tạo lại là hết sức cần thiết. “Cho dù là các ứng viên khi tuyển dụng vào đều có trình độ chuyên môn hoặc kỹ năng làm việc tốt song việc đào tạo lại giúp họ thích ứng nhanh hơn với công việc và yêu cầu của tổ chức, đồng thời cũng là cơ hội để các ứng viên hiểu rõ hơn về nơi mà họ sẽ cống hiến và gắn bó”.

Ông Đào Văn Minh (Giám đốc thị trường và phát triển dự án, Tổng công ty Lilama) cho biết mỗi năm công ty này đào tạo hơn 5000 kỹ thuật viên lành nghề để phục vụ không chỉ cho công ty mà cho toàn xã hội. “Nếu xã hội chưa cung cấp cho mình đủ nguồn nhân lực có chất lượng thì mình nên tự cứu mình bằng cách tự đào tạo”.

Liên kết nhà trường- nhà doanh nghiệp

Từ góc nhìn của doanh nghiệp, ông Nguyễn Minh Khang cho rằng các trường đại học – cao đẳng cũng là 1 nhà máy sản xuất và sản phẩm của họ là nguồn nhân lực công nghệ cao. Mà đã là nhà máy sản xuất thì cũng phải đi tìm các đối tác, khách hàng chính là các doanh nghiệp có nhu cầu để hợp tác và phát triển. Ông Khang nhấn mạnh đến việc doanh nghiệp và nhà trường cùng nhau hợp tác để đào tạo ra những nguồn lao động làm được việc theo đúng nhu cầu của thực tế. “Có thể hình dung thế này: Là một đơn vị sản xuất, trước khi sản xuất ra một hàng hóa chúng tôi phải tìm hiểu nhu cầu thị trường, xác định đối tượng khách hàng để từ đó biết được mình phải sản xuất cái gì, như thế nào, số lượng bao nhiêu… nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Và các trường đại học, cao đẳng của chúng ta cũng nên làm như vậy. Việc “bắt tay” giữa các doanh nghiệp và tổ chức giáo dục sẽ mang lại những lợi ích cụ thể và thiết thực như phía tổ chức giáo dục sẽ biết được chính xác nhu cầu nhân lực để có kế hoạch đào tạo phù hợp, sát yêu cầu thực tiễn. Các học viên khi ra trường sẽ tìm được việc phù hợp với chuyên môn. Còn doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí đào tạo và đào tạo lại”.

Theo ý kiến từ các trường Đại học hiện nay, hình thức hiệu quả nhất là hợp tác và mời các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đóng góp ý kiến cho các chương trình đào tạo. Qua việc hợp tác này, các trường Đại học sẽ có thông tin về nhu cầu lao động cùng các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết tại doanh nghiệp; quan trọng nhất là trình độ công nghệ hiện tại của doanh nghiệp. Việc thực tập tại doanh nghiệp của sinh viên và giáo viên được tạo điều kiện thuận lợi. Sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể có kinh nghiệm thực tế và không bỡ ngỡ trong những ngày đầu nhận việc.

Hiện, trên khắp cả nước, số lượng trường đào tạo theo mô hình liên kết với doanh nghiệp chỉ đếm trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, có một hạn chế là học phí của những cơ sở đào tạo này quá cao mà hầu hết sinh viên hiện nay khó có thể kham nổi. Điều này đòi hỏi nhà nước cần đánh giá đúng đắn hơn về tiềm năng phát triển của ngành CN cao, từ đó có những đầu tư đúng mức nhằm phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn này.

Đưa đào tạo vào khu công nghệ cao

Ông Nguyễn Duy Phong, Phó hiệu trưởng trường Đại học FPT cho rằng việc đưa các trường đào tạo vào ngay các khu công nghiệp là một phương án có hiệu quả để sinh viên có điều kiện vừa học, vừa làm, được cọ sát thực tế. Không chỉ có các doanh nghiệp tận dụng được nguồn nhân lực mà các trường học cũng sẽ có được những phòng thí nghiệm và nhà máy từ chính hệ thống của các doanh nghiệp. Đây cũng là mô hình khá phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế phát triển tốc độ cao như Trung Quốc. Có thể kể đến như khu công nghệ cao ở Hàng Châu của nước này có đến 30 trường đại học. Khu công nghệ cao Đại Liên cũng có tới 12 trường, trong đó có trường Đại học Neusoft của tập đoàn công nghệ thông tin Neusoft (một trong những công ty phần mềm lớn nhất Trung Quốc) đang cung cấp một số lượng lớn nguồn lao động có chất lượng cho thị trường trong và ngoài nước.

Tại Việt Nam, mô hình này vẫn đang ở giai đoạn manh nha và chưa thực sự phát triển. Vừa qua, trường Đại học FPT đã chính thức khởi công được coi là sự kiện đánh dấu một bước phát triển mới trong việc đào tạo công nghệ của nước nhà. Đại diện FPT cho biết nếu khu công viên phần mềm FPT kịp triển khai khi lứa sinh viên mới nhập trường đến thời gian thực tập, đại học FPT sẽ tổ chức cho sinh viên thực tập ngay tại Hòa Lạc. Hi vọng trong tương lai không xa, mô hình đào tạo ngay tại các khu công nghệ cao sẽ được nhân rộng và phát triển.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN