01:20 07/01/2015

Đi tìm giấc mơ hoài cổ

Vào nhà ông, tôi luôn bị ám ảnh bởi chiếc cửa gỗ đã sờn màu, nứt mẻ với thời gian và chiếc xe đạp đầy thân phận bởi ông chủ của nó không bao giờ tân trang lại cho nó một diện mạo mới để hãnh diện đi ra phố.

Vào nhà ông, tôi luôn bị ám ảnh bởi chiếc cửa gỗ đã sờn màu, nứt mẻ với thời gian và chiếc xe đạp đầy thân phận bởi ông chủ của nó không bao giờ tân trang lại. Tôi luôn thương căn bếp nhỏ xíu, nơi hàng ngày ông vẫn lặng lẽ đun nấu những món ăn đạm bạc cho mình. Cái bếp ga cũ kỹ, hoen rỉ, cái chạn bát đầy muội đen bám quanh những chiếc bát cổ đã có nhiều vết rạn, những đôi đũa lệch, những chiếc thìa méo mó lâu không có người dùng đã bắt đầu chuyển màu trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn điện nhỏ ở góc nhà. Ở phía trong, ông vẫn dự trữ nước trong những bồn bê tông không nắp đậy. Mùi nước, mùi của tường vôi đã lâu không sơn quét bị bong tróc… khiến tôi cố lý giải lý lẽ của nhà thơ, bởi trong khi nhà nhà đều lên đời, người người đều cố cơi nới, cố làm cho căn nhà của mình hiện đại lên, sáng sủa lên thì nhà thơ Ngô Văn Phú có lẽ đang tự cho phép mình giữ lại một căn nhà với nguyên trạng như mấy chục năm trước, thời ông mới bước về đây...

Nhà thơ Ngô Văn Phú.


Nâng niu kỷ vật


Ở tuổi 77, khỏe mạnh đã là một điều thiên phú, nhà thơ Ngô Văn Phú hơn người còn ở chỗ, năng lực viết hình như chưa... già đi. Trên bàn làm việc của ông, lúc nào cũng có kính lúp, sách chữ Hán, chữ Nho, từ điển Tiếng Việt, giấy bút. Nhiều người thường cho rằng, viết văn cần phải có cảm hứng, còn ông cho rằng, văn chương, đã có trong con người mình, chỉ chờ vào sự mẫn cán và năng lực viết để tạo nên tác phẩm. Thời gian của ông bây giờ chỉ dành để sáng tác bên chiếc bàn có khung cửa sổ, khung cửa sổ nhìn ra một bầu trời cao rộng, khiến tôi liên tưởng đến bài thơ nổi tiếng của ông: “Trên trời mây trắng như bông / Ở giữa cánh đồng bông trắng như mây / Mấy cô má đỏ hây hây / Đội bông như thể đội mây về làng”.
Hiện nay trong gia tài của ông có hơn 200 tác phẩm đủ các thể loại văn thơ, dịch thuật, nghiên cứu phê bình, truyện lịch sử, tuyển chọn, giới thiệu, nhưng, ông vẫn chỉ thừa nhận hai mảng đề tài lớn là truyện lịch sử và thơ về nông thôn.

Tôi hỏi ông: Viết truyện lịch sử khó nhất ở điểm nào? Ông cho rằng cái khó là việc tìm tài liệu, bởi không phải nhân vật nào cũng có thông tin đầy đủ, sau đó là cách thể hiện trong tác phẩm, có hư cấu nhưng phải khéo léo, bởi người đọc tinh lắm, viết không cẩn thận sẽ bị đánh giá "huyên thuyên". Ông cũng tâm huyết với hơn 150 truyện ngắn lịch sử và nhiều tiểu thuyết về những nhân vật nổi tiếng và tiêu biểu của từng thời, về nhân cách, về học vấn, về sự xả thân vì dân vì nước, là để cho đời sau hiểu thêm về họ. Lịch sử thì cứ viết đi viết lại nhưng mỗi thời phải viết lại theo nhãn quan của thời mình, ông nghĩ đó là một việc làm bổ ích.

Thời gian làm Giám đốc NXB kiêm Tổng biên tập NXB Hội nhà văn cũng chính là thời điểm Ngô Văn Phú viết và in nhiều nhất. Tôi nói đùa làm “quan chức” là lúc người ta khó viết nhất, vậy mà ông thì ngược lại. Ông cười: “Có gì đâu, khó như làm thơ viết văn còn làm được, nữa là chức ấy, ai chả làm được!”. Tôi nghĩ ông nói tếu. Bởi vì hơn bao giờ hết, ông là người rất trân trọng những bạn văn của mình và trên hết, ông rất trân trọng các tác phẩm văn chương. Thời ông làm Giám đốc NXB Hội Nhà văn, ông đã nâng đỡ và in ấn nhiều tác phẩm mang tính lịch sử xã hội. Ông bảo, đó là thời kỳ người ta trân quý văn chương, một tác phẩm viết ra được sẻ chia và bình luận nhiều lắm. Rồi ông lật giở từng tấm hình đen trắng cũ, có những người bạn lớn như Vũ Tú Nam, Nguyễn Kiên, Xuân Quỳnh… - những người bạn văn mà lịch sử văn học không thể nào phủ nhận được.

Cuộc đời bình lặng


Cả cuộc đời theo văn nghiệp, có hàng chục giải thưởng lớn nhỏ nhưng nhà thơ Ngô Văn Phú ít giao du, ít bè bạn, ít những cuộc xôm tụ thậm chí không có một chút “gây hấn” với chính mình để cuộc sống bớt đi tẻ nhạt. Ông sống điềm đạm, cần mẫn như bản tính “nhà Nho” của truyền thống gia đình. Ông chia sẻ: Thuở nhỏ ông được học thầy đồ ở làng. Cũng nhờ được học chữ Nho mà sau này ông có điều kiện tìm hiểu sâu văn chương thơ phú đặc biệt để tiếp cận với văn hóa phương Đông, nhất là thơ Đường. Lại được sinh trưởng trong một gia đình có người anh say mê văn chương, trong nhà có nhiều tác phẩm kinh điển. Gia đình ông thường có khách văn đến chơi, họ là những nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, Trần Huyền Trân… là bạn văn của người anh. Thuở học trò, nhà thơ Ngô Văn Phú là bạn học với nhiều nhà thơ. Bước vào trường đại học, ông được học với các thầy Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, là những cây đại thụ văn chương của nước nhà. Ông cũng đã từng lăn lộn ở những nơi chiến tranh ác liệt, để có thể có những vốn sống tuyệt vời, những chất liệu cho trang viết về tiểu thuyết và truyện ngắn lịch sử của mình.

Đôi khi tôi nghĩ rằng, người viết văn, làm thơ có nghĩa là được thiên phú cho một sứ mệnh nào đó, hoặc cuộc đời của họ gặp rất nhiều trắc trở. Nhà thơ Ngô Văn Phú cũng không phải là một ngoại lệ dù cuộc đời ông nhìn bên ngoài khá bình lặng, ít tai tiếng. Ông dần kể cho tôi nghe về một cuộc tình câm lặng đầy khổ đau với người đàn bà, người là nguyên mẫu của hầu hết những bài thơ tình của ông. Thuở ấy, ông trời đã khéo trêu người vì đã đem nàng đến ở cạnh ông trong căn nhà tập thể đầy chật hẹp, một nửa căn nhà bây giờ ông đang sống. Nàng kém ông đến cả chục tuổi, mê thơ và phải lòng người thi sĩ sống cô đơn bên cạnh căn gác của mình.

Từ sự cảm mến đến yêu thương trong gang tấc. Họ quyết tâm đến ở cùng nhau nhưng ông trời không thương. Một mối tình đầy ngang trái vì hai người không đến được cùng nhau bởi cả hai người đều có quá nhiều ràng buộc. Rồi nàng rời xa Hà Nội để lại một khoảng trống vô bờ bến trong trái tim thi nhân. Những bài thơ đôi khi đau đớn, đôi khi nuối tiếc, đôi khi đầy tang thương, đôi khi đầy hy vọng nhưng kết cục vẫn là một nỗi bi ai: “Không lúc nào ta không nghĩ về nhau/ Những ước mơ lặng thầm/ Những khát khao gần gũi/ Bao năm tháng chia xa bao chờ đợi/ Đã bao giờ ta được sống gần nhau/ Gặp gỡ làm chi cho vơ vẩn âu sầu/ Cho trằn trọc nhớ thương, thương nhớ/ Khi cái thiếu tìm về nơi sẵn có/ Chưa đắp bù càng thiếu vắng cô đơn/ Đôi mắt em ẩn náu nỗi niềm riêng/ Câu cửa miệng em mong chờ kiếp khác/ Anh cũng thế cứ như người bước hụt/ Nửa sống cho mình nửa biết sống cho ai/ Vẫn cứ đi khắp bể rộng sông dài/ Để lại phía sau lời yêu thương chưa bao giờ nói được/ Để lại phía sau một tâm hồn đói khát/ Để lại sau mình hoa trắng tình yêu”.

Bây giờ, thỉnh thoảng người đàn bà trong mộng của ông vẫn thăm hỏi ông. Ông kể: Mùa đông vừa rồi, nàng gửi ra cho ông một chiếc chăn ấm áp. Rồi ông chỉ lên cái gác nhỏ đầu giường ông nằm: Chăn đấy! Tôi hỏi sao ông không bỏ ra đắp cho ấm, nhà thơ đọc một câu thơ chữ Hán đại loại chăn cất vào không đắp vì muốn giữ hơi ấm của người yêu thương! Tôi bỗng hiểu vì sao ông muốn giữ nguyên trạng căn nhà với hàng nghìn cuốn sách ngổn ngang, cái hành lang hẹp nơi ông để chiếc xe đạp cà tàng vẫn nguyên vẹn như vài chục năm trước, chiếc giường đơn lẻ ông nằm bao nhiêu năm nay vẫn ở nguyên vị trí cũ, cả chiếc gương soi, cả những bức ông tự vẽ chân dung người yêu vẫn ở nguyên như khi nàng còn hiện hữu… Là vì ông muốn giữ lại bóng dáng xa xưa của người yêu dấu, để trong ngày ba bữa cơm đạm bạc lẻ loi một mình độc ẩm, một mình đối diện với chính mình trong căn nhà ít có bàn tay dọn dẹp và phủ một lớp bụi thời gian, lớp bụi đời người.

Có khi ông lẩn thẩn đứng ngồi ngắm nhìn mây trắng bay đi bay về qua khung cửa sổ, thổn thức như thể dỗi hờn với chính trái tim mình vì không được cùng ai thắp lên ngọn lửa tình yêu trong suốt những tháng năm lạnh giá: “Người ấy chắc em thường vẫn nhớ/ Dải hành lang hẹp lối em qua/ Ban mai đang hửng lên ráng đỏ/ Ủ nóng trong tay một chén trà/ Người ấy chắc em thường vẫn nhớ/ Buồn thường uống rượu một mình thôi/ Chén đã kề môi mà chẳng nhấp/ Buông mắt nhìn ra một khoảng trời…”.

Nhật Huy