02:10 17/02/2011

Công nghiệp dược chạy đua với thuốc ngoại

“Công nghiệp dược Việt Nam hiện đang thua ngay trên sân nhà, dù thuộc danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007- 2010”, đó là đánh giá của bà Phạm Khánh Phong Lan, Phó Giám đốc Sở Y tế TP.HCM.

“Công nghiệp dược Việt Nam hiện đang thua ngay trên sân nhà, dù thuộc danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007- 2010”, đó là đánh giá của bà Phạm Khánh Phong Lan, Phó Giám đốc Sở Y tế TP.HCM. Rõ ràng, công nghiệp dược đang rất cần tăng tốc trong cuộc đua với thuốc ngoại.

Thị trường dành cho người ngoài


Theo Bộ Y tế, năm 2009 thị phần của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc Việt Nam so với thuốc ngoại là 50/50. Đến 2010, tỷ lệ này chỉ còn là 46/54. Theo thống kê của Cục Quản lý dược, ngành công nghiệp dược đã phát triển hơn trước (180 nhà máy), thị trường dược Việt Nam có trên 22.000 mặt hàng thuốc đã được cấp số lưu hành. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu tới 90% nguyên liệu sản xuất thuốc và trên 50% thuốc thành phẩm.


TS Phùng Hà, Cục trưởng Cục Hóa chất (Bộ Công Thương) cho biết: “Phải thừa nhận một thực tế là xét về quy mô, ngành công nghiệp hóa dược nước ta còn tương đối nhỏ bé và nghèo nàn về chủng loại sản phẩm, chưa sản xuất được các nguyên liệu chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu bào chế các loại thuốc.

Sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn GMP-WHO tại Công ty cổ phần Dược phẩm Agimex Pharm (An Giang). Ảnh: Nhật Anh-TTXVN.

Các công ty dược Việt Nam chủ yếu thực hiện bào chế gia công, còn hầu như các nguyên liệu hóa dược đều phải nhập khẩu. Đội ngũ nghiên cứu hóa dược ngày càng mai một và bây giờ mới bắt đầu đào tạo lại”. Về tình hình sản xuất trong nước, TS Hà cho biết: “Việt Nam mới chỉ có Công ty cổ phần Dược phẩm Mekophar là đơn vị sản xuất nguyên liệu kháng sinh duy nhất trong cả nước, sản phẩm là amxilin và ampecilin.


Với một số các loại đơn giản khác như vitamin C thì thậm chí chúng ta vẫn chưa có nhà máy sản xuất vitamin C và mỗi năm phải nhập khẩu khoảng 700 tấn vitamin C”. Với các loại thuốc đặc trị, hiện Việt Nam đang phải nhập khẩu hoàn toàn các loại hóa chất đặc trị ung thư, thuốc tim mạch với giá rất đắt, trong khi nước ta có nhiều loại cây chứa các hoạt chất hoặc các tiền chất chống ung thư như cây thông đỏ, cây dừa cạn, cây trinh nữ hoàng cung…

Lý do bởi chúng ta chưa khai thác được tiềm năng của nguồn nguyên liệu này mà chỉ dừng lại ở nghiên cứu và điều chế quy mô nhỏ. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, trình độ phát triển công nghiệp dược của Việt Nam hiện nay chỉ ở mức 3, tức là mức có nền công nghiệp dược nội địa dựa trên nguyên liệu nhập khẩu, và có xuất khẩu thành phẩm.


 Một số phỏng vấn các nhà thuốc nhỏ lẻ cho thấy, người dân thuộc các khu dân cư lao động phần lớn chỉ dùng thuốc nội khi mắc phải các bệnh thông thường. Thậm chí, tại các nhà thuốc bán ở gần bệnh viện, các phòng khám tỷ lệ người mua thuốc nội chỉ khoảng 25%. Trong khi đó các loại thuốc nội, đông dược vốn có tác dụng tốt. Có nghĩa là người dân đang mang tâm lý thuốc ngoại tốt hơn hẳn thuốc nội. Tâm lý này của người dân làm cho công nghiệp dược nước nhà càng khó khăn hơn.

Hướng nào phát triển?


Các chuyên gia y tế cho rằng, Việt Nam đang từng bước phấn đấu ra khỏi nhóm nước đang phát triển để gia nhập vào nhóm nước công nghiệp, vì vậy nhiệm vụ trọng tâm của công nghiệp dược nội địa là xây dựng một nền công nghiệp bào chế dược phẩm hiện đại, tiên tiến để có thể tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng và mở rộng danh mục thuốc bào chế trong nước phục vụ yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân.


PGS.TS Lê Văn Truyền, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế nhận định: “Công nghiệp dược là ngành công nghiệp kỹ thuật cao, vì vậy nguồn lực khoa học- công nghệ của đất nước và các ngành công nghiệp phụ trợ đóng một vai trò quyết định trong việc phát triển công nghiệp dược, nhất là công nghiệp sản xuất nguyên liệu hóa dược”.

Ðể phát triển công nghiệp nguyên liệu hóa dược, ngoài yếu tố cực kỳ quan trọng là chủ trương và đường lối của Ðảng và Chính phủ, còn cần có một số yếu tố và điều kiện về nguồn lực quốc gia như trình độ và quy mô nền công nghiệp, nhất là công nghiệp hỗ trợ (hóa dầu, cơ khí chính xác, tự động hóa, công nghệ thông tin...) cũng như nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, các cơ sở nghiên cứu khoa học, môi trường luật pháp về bảo hộ sở hữu trí tuệ, các dịch vụ hỗ trợ.


 Ngoài ra, theo PGS.TS Truyền, yếu tố thị trường hấp dẫn, chính sách mua sắm cho khu vực y tế công và bảo hiểm y tế cũng là những yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho một môi trường kinh doanh dược phẩm lành mạnh.

Có thể thấy rằng, với tiềm lực về khoa học - kỹ thuật và trình độ phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ hiện nay, trong thập kỷ 2011-2020 Việt Nam chưa thể tự túc sản xuất các nguyên liệu hóa dược, điều mà hiện nay mới chỉ có 13 quốc gia công nghiệp phát triển có khả năng thực hiện.


 “Lợi thế cạnh tranh của công nghiệp dược trong nước là công nghiệp bào chế, với hơn 100 nhà máy đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP) của Tổ chức Y tế thế giới và một số ít đạt tiêu chuẩn GMP Cộng đồng châu Âu hoặc Nhật Bản.

Trong giai đoạn 2011-2020, việc đẩy mạnh sản xuất thuốc generic, đặc biệt là các generic mới từ các dược chất hết thời hạn bảo hộ sở hữu trí tuệ là cực kỳ quan trọng để có thể cung cấp thuốc tốt với giá cả hợp lý cho nhân dân”, PGS.TS Truyền nhấn mạnh.


Từ góc nhìn thương mại, TS Phùng Hà cho rằng: “Việc đầu tiên là sản phẩm dược phẩm, hóa dược của Việt Nam ngày càng phải tốt lên, nếu không ngang tầm được với sản phẩm nước ngoài thì chất lượng cũng phải xấp xỉ thì mới khuyến khích được người tiêu dùng.

 Thứ hai, cần phải đẩy mạnh việc tuyên truyền, thậm chí có thể dùng cả những biện pháp mang tính hành chính; chẳng hạn yêu cầu các doanh nghiệp dược và ngành y tế phải sử dụng sản phẩm dược trong nước sản xuất”.