05:22 02/05/2012

Cồn Thị giữa phố thị

Giữa thủ phủ Tam Kỳ (Quảng Nam) năng động, phát triển trong thời kì hội nhập lại tồn tại một xóm mà người dân bản địa gọi bằng cái tên “xóm nghèo Cồn Thị”. Bao đời nay, họ vẫn chìm trong túng quẫn, cuộc sống hết sức chật vật...

Giữa thủ phủ Tam Kỳ (Quảng Nam) năng động, phát triển trong thời kì hội nhập lại tồn tại một xóm mà người dân bản địa gọi bằng cái tên “xóm nghèo Cồn Thị”. Bao đời nay, họ vẫn chìm trong túng quẫn, cuộc sống hết sức chật vật, ngày ngày cố gắng trỗi mình vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo đeo đẳng.

Nghèo cả xóm

Xóm Cồn Thị (thuộc khối phố 6, phường Phước Hòa) xưa kia là một mỏm đất cao, được bồi đắp bởi hai con sông Bàn Thạch và Kì Phú. Giữa xóm xuất hiện hàng chục cây thị cao to đến hai ba người ôm không xuể. Và cái tên Cồn Thị cũng từ đó mà có. Theo những vị cao niên trong làng kể lại thì xóm được hình thành từ những năm 70 của thế kỉ 19, một vị khách vãng lai từ ngoài Bắc vào thấy vị trí địa lí nơi đây phù hợp với nghề đánh bắt thủy sản nên đã định cư tại đây. Rồi dần dần những cư dân địa phương lân cận, đa phần là những người vô gia cư, không có tấc đất cắm dùi cũng tìm đến đây. Thế nhưng qua bao thăng trầm cùng biến cố lịch sử, người dân xóm Cồn Thị bao đời nay vẫn không thoát được cảnh bần hàn, nhiều người trong xóm ngày ngày luẩn quẩn nợ nần bởi nghề sinh nhai duy nhất nuôi sống người dân trong xóm đang đứng trước cửa cạn kiệt, đánh bắt bây giờ không thể giúp họ trang trải cuộc sống đắt đỏ chốn thị thành.

Cồn Thị như một “ốc đảo” nằm soi mình giữa hai dòng sông, bao đời nay chìm trong cảnh nghèo khổ

Dẫn chúng tôi rảo bước một vòng từ đầu đến cuối xóm, ông Lê Minh Khanh, trưởng khối phố 6 không ngừng nhắc đến những hộ dân khó khăn nơi đây và dường như mỗi căn nhà tuềnh toàng, tạm bợ mà chúng tôi qua, ông lại chỉ tay về từng mái nhà, rồi kể về từng hoàn cảnh, số phận cơ cực của họ và có lẽ hầu hết những người dân trong xóm không một ai tránh khỏi cảnh… nghèo. “Cả xóm hiện có 134 hộ dân với 569 nhân khẩu, nhưng có đến 15 hộ nghèo, 25 hộ cận nghèo và những hộ còn lại đa phần nằm trong diện khó khăn, nhiều hộ đang nằm trong danh sách xét duyệt hộ nghèo để được hưởng trợ cấp”, ông Khanh cho biết. Trong danh sách mà ông liệt kê, có khá nhiều hoàn cảnh thương tâm như trường hợp của bà Huỳnh Thị Thanh (71 tuổi), neo đơn trong căn nhà nhỏ chật hẹp chưa đầy 12 m2, hơn 10 năm nay bà bị căn bệnh động kinh hành hạ đến mất sức lao động, thơ thơ thẩn thẩn sống qua ngày nhờ sự đùm bọc của bà con chòm xóm, cùng với số tiền trợ cấp xã hội 180.000 đồng/tháng, ngần ấy thậm chí không đủ giúp bà trang trải chi phí thuốc thang mỗi khi trở bệnh. Cũng có hoàn cảnh éo le không kém bà Thanh, bà Huỳnh Thị Lý, năm nay đã bước sang tuổi thất thập cổ lai hy, ngày ngày chật vật với những căn bệnh tuổi già triền miên, con cái làm ăn xa không một ai phụng dưỡng ở cái tuổi xế chiều, mọi sinh hoạt đều nhờ vào người cháu sống sát vách nhà. Chỉ tay về phía người đàn bà ốm nhom, gầy guộc, gương mặt nổi xộm những đốt xương, da dẻ nhăn nheo trông già hơn cái tuổi 40, ông Khanh nói: “Đó là chị Nghĩa, chồng bỏ đi biệt xứ mấy năm nay. Quanh quẩn ở nhà ai kêu gì mần nấy. Tội lắm chú ạ, người gầy yếu thế chứ gánh vác đủ thứ, nuôi mẹ già rồi bốn đứa con ăn học. Một đứa vừa rồi học lớp 12 xin nghỉ để vào Sài Gòn làm công nhân gửi tiền về cho các em ăn học. Thấy thương tình, bà con nơi đây ai cũng cố bớt miếng cơm, cái quần manh áo cũ giúp đỡ, nhưng giúp thì cũng có chừng mực vì bà con ở đây hoàn cảnh có khá hơn là bao”.

Khi chúng tôi hỏi: “Thế bà con nơi đây thường mần gì để sống”, ông Khanh cười tếu táo rồi trả lời chỏn lỏn: “Đánh cá ở sông. Sông có cá nhiều thì cái bụng no hơn, còn không thì đói móp mỏ”.

Mơ một ngày thoát nghèo

Cách đây 20 năm, trên sông Bàn Thạch và sông Kì Phú có khoảng từ 5 đến 10 ghe neo đậu đánh bắt và cũng chừng năm ba hộ dân hành nghề đánh bắt cá trên sông nhưng cho đến nay, số lượng ghe xuồng thường xuyên túc trực đánh bắt cá neo đậu ở xóm Cồn Thị đã lên đến 30 chiếc. Người hành nghề này trong xóm mỗi lúc một đông nhưng số lượng tôm cá trên sông ngày một khan hiếm. “Tôi làm nghề này đã hơn 30 năm nay. Lúc trước tôm cá nơi đây nhiều lắm, nhưng một vài năm trở lại đây thì trở nên nghèo nàn, khan hiếm, chắc chẳng mấy chốc mà cạn kiệt. Và cũng nhờ vào nguồn lợi thủy sản trên những con sông này mà gia đình tôi mới cầm cự sự sống đến ngày hôm nay. Không biết khi phải bỏ nghề thì lấy gì nuôi gia đình đây”, ông Lê Minh Ngọc, một người dân hành nghề đánh bắt trong xóm than vãn.
Sở dĩ nguồn lợi thủy sản trên những con sông này ngày một cạn kiệt, theo bà con trong xóm, ngoài lí do chủ quan trên còn phải kể đến môi trường nước nơi đây đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Một ngôi chợ tạm được bà con nơi đây dựng lên với rất nhiều cái không: không quản lí, không đảm bảo các yêu cầu chung của một khu chợ cần có và đặc biệt không xử lí vệ sinh rác thải, điều này khiến môi trường nước trên sông trở nên đục ngòm, đen đúa, cá tôm cũng không tài nào sống nổi.

Bám trụ với cái nghề hàng trăm năm qua giúp bà con nơi đây cầm chừng qua bữa nhưng nay đang đứng bên bờ vực đói khổ, nhiều người dân bắt đầu đổ xô vào Nam, ra Bắc làm ăn với hy vọng thoát khỏi cái nghèo và ước mơ về một ngày mai tươi sáng sẽ đến với thế hệ con cháu họ. Theo ông Khanh, vài năm trở lại đây trong xóm dường như dấy lên phong trào tự phát, người dân trong xóm nằm trong độ tuổi lao động đều lũ lượt kéo nhau đi làm ăn xa, trong xóm ngày thường chỉ còn phụ nữ, bà già và trẻ con. “Tụi nó đi để đổi đời, chứ cái kiếp nghèo khổ suốt mấy đời nay ở xóm này vẫn không thể đổi vận. Trẻ con làng này nghèo quá mà phải bỏ học đi làm sớm, cũng bởi cái nghèo mà bà con trong xóm ít có điều kiện chăm sóc sức khỏe, ăn uống kham khổ, phát sinh bệnh tật. Chừ mà không mần kiếm ăn nơi khác thì có mà nghèo truyền kiếp”, bà Lê Thị Lệ, một cao niên trong xóm bộc bạch.

Rời Cồn Thị vào buổi chiều hoàng hôn khi mặt trời đang rót những hạt nắng tinh khôi xuống dòng sông êm ả, những dãy nhà lụp xụp in bóng nhấp nhô trên mặt nước, lũ trẻ trong làng tíu tít, dắt díu nhau sau giờ tan học. Tôi hy vọng thế hệ này sẽ giúp cho xóm nghèo nơi đây đổi thay da thịt và có một đời sống kinh tế khá hơn nhiều so với hiện nay.

Thanh Ba