Kết hợp sức mạnh hai miền Nam - Bắc

Đúng như Đại hội IV của Đảng đã đánh giá “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là kết quả hợp thành của tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại”. (1) Một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tất thắng đó chính là sự kết hợp giữa sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với sức mạnh của hậu phương tại chỗ ở miền Nam.


Chi viện sức người - sức của


Ngay từ rất sớm, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cả nước; đồng thời với xây dựng các vùng căn cứ, hậu phương tại chỗ ở miền Nam để từng bước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam-Bắc. Xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội chẳng những đáp ứng yêu cầu phát triển khách quan của miền Bắc sau khi đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà còn là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng miền Nam lúc bấy giờ.

 

Đơn vị vận tải C3 Anh hùng (Đoàn 250 Tây Nguyên) chuyển đạn phục vụ chiến dịch. Ảnh tư liệu TTXVN

 

10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1964) là khoảng thời gian hòa bình mà miền Bắc đã tận dụng để tập trung khôi phục và phát triển kinh tế. Những cơ sở vật chất và kỹ thuật được tạo ra trong - thời kỳ này cùng với những thành công của Phong trào Hợp tác hóa đã tạo tiền đề và khả năng để miền Bắc thể hiện vai trò hậu phương của mình với tiền tuyến miền Nam. Nhiệm vụ chi viện trực tiếp cho cách mạng miền Nam được triển khai ngay từ khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương (1959).

 

Tuy vậy, phải đến tháng 1/1961, khi Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Phương hướng và công tác trước mắt của cách mạng miền Nam” thì công tác chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam mới được triển khai một cách đồng bộ và toàn diện theo hướng đáp ứng những yêu cầu cụ thể của các cơ quan, ban, ngành, đơn vị, địa phương ở miền Nam. Thời kỳ này, cùng với tuyến vận tải chiến lược trên bộ được xây dựng từ năm 1959, tuyến vận tải trên biển cũng bắt đầu được hình thành để đáp ứng yêu cầu chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam đang tăng nhanh. Quân đội triển khai tổ chức các đơn vị “đi B” và hình thành các trung tâm huấn luyện cho lực lượng này. Cho đến năm 1964, hậu phương lớn miền Bắc đã chi viện cho các chiến trường ở miền Nam trên 40.000 quân và 3.000 tấn vũ khí.


Sau thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đầu năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược Chiến tranh cục bộ, ồ ạt đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam và leo thang chiến tranh ra phá hoại miền Bắc. Lúc này, miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, lại vừa phải dốc sức chi viện cho các chiến trường miền Nam. Mọi hoạt động tại hậu phương lớn miền Bắc đều được chuyển sang thời chiến theo tinh thần “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Miền Bắc đã phải hai lần chuyển hướng, tiến hành động viên quy mô lớn sức người, sức của để chi viện cho cách mạng miền Nam; trong khi lại còn phải gồng mình chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo của đế quốc Mỹ. Trong những năm 1965-1975, miền Bắc đã động viên hơn 2 triệu thanh niên tham gia lực lượng vũ trang, tổng số lao động ở miền Bắc được động viên chiếm tới 11% dân số.

Thậm chí vào các năm 1968, 1972, 1975 số nhân lực được động viên còn vượt quá số lao động xã hội tăng lên hằng năm. Thời kỳ cao điểm (từ năm 1965 đến năm 1972), hậu phương miền Bắc đã chi viện cho cách mạng miền Nam trên 670.000 quân (chiếm 43% tổng số quân động viên ở hậu phương trong trong thời gian đó). Chỉ tính riêng trong năm 1968, miền Bắc đã đưa vào miền Nam 141.081 quân và cán bộ dân chính đảng cùng 72.499 tấn vũ khí và hàng hóa các loại. Liên tiếp trong ba năm sau đó (1969-1972), khi mà tình hình tại các chiến trường miền Nam gặp nhiều khó khăn, miền Bắc đã kịp thời chi viện tiếp 162.051 cán bộ, chiến sĩ và 111.045 tấn vật chất các loại.


Sự chi viện kịp thời và có hiệu quả này đã giúp cách mạng miền Nam nhanh chóng phục hồi, vượt qua được giai đoạn khó khăn sau Mậu Thân. Trong 2 năm 1973-1974, miền Bắc đã huy động được 25 vạn thanh niên nhập ngũ thì 15 vạn trong số đó nhanh chóng được tổ chức huấn luyện và bổ sung tăng cường cho các chiến trường miền Nam cùng với 379.000 tấn vật chất (bằng 54% tổng khối lượng vật chất miền Bắc đưa vào miền Nam trong 16 năm trước đó).


Trải qua hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của Không quân và Hải quân Mỹ, hậu phương miền Bắc đã phải chịu tổn thất nặng nề. Mặc dầu vậy, trước khi quân và dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, miền Bắc không những đã vượt qua được những khó khăn thử thách tưởng chừng như không vượt qua nổi, mà còn nhanh chóng khôi phục nền kinh tế, tạo được sự phát triển đáng kể. So với năm 1965 thì tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân của miền Bắc năm 1974 đã tăng 1,3 lần; sản lượng lương thực tăng 75 vạn tấn, công nghiệp tăng 1,5 lần; năng lực vận tải tăng 1,5 lần… Lúc này, miền Bắc tiếp tục động viên từ nền kinh tế được trên 1 triệu tấn lương thực (chiếm 18% tổng sản lượng của năm 1974), huy động 60% năng lực vận tải hiện có để nhanh chóng đưa hàng vào các chiến trường. Chỉ riêng 9 tháng đầu năm 1974, miền Bắc đã chuyển vào các chiến trường miền Nam trên 33 vạn tấn vật chất các loại.


Giai đoạn cuối của cuộc KCCM, trong bối cảnh không còn nguồn viện trợ từ các nước XHCN, để thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, miền Bắc đã phải dốc toàn bộ sức lực của mình chi viện cho các chiến trường miền Nam. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975, từ hậu phương lớn miền Bắc đã có hơn 110.000 quân và 230.000 tấn vật chất các loại được đưa vào các chiến trường ở miền Nam.


Để kịp thời đưa nguồn nhân lực và vật chất được động viên từ miền Bắc vào các chiến trường phục vụ tổng tiến công, ngoài 6.770 chiếc ô tô vận tải chuyên trách của quân đội, các địa phương, cơ quan, ban, ngành ở miền Bắc còn huy động tới 60% các phương tiện vận tải dân sự. Riêng về nhiên liệu, trong 2 năm 1973-1974, hệ thống đường ống xăng dầu Bắc-Nam đã đưa vào các chiến trường gần 303.000 tấn.


Khối lượng lớn binh khí, kỹ thuật, nhiên liệu được miền Bắc động viên và kịp thời chi viện cho các hướng tiến công trên các chiến trường ở miền Nam đã giúp cho các binh đoàn chủ lực thực hiện cơ động thần tốc, hoàn thành các mục tiêu chiến lược đề ra.


Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu chiến lược quân sự Mỹ đều cho rằng: Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Mỹ thua ở Việt Nam là do không triệt phá được tiềm lực của miền Bắc.


* * *


Xây dựng các vùng căn cứ


Ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, song song với việc tập trung xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn của cả nước, Đảng Lao động Việt Nam cũng đã chủ trương xây dựng các vùng căn cứ, vùng giải phóng thành hậu phương tại chỗ cho chiến tranh cách mạng ở miền Nam.


Đây vừa là nơi xây dựng thế trận chiến lược của chiến tranh nhân dân; vừa đáp ứng được yêu cầu của các chiến trường, giải quyết vấn đề hậu cần tại chỗ cho các lực lượng kháng chiến, nhất là tại những địa bàn xa xôi cách trở, sự chi viện của hậu phương miền Bắc thường vào chậm, hoặc vào rất hạn chế.


Trong kháng chiến chống Mỹ, hệ thống căn cứ địa, vùng giải phóng ở miền Nam đan xen liên hoàn, nối từ miền Tây Trị-Thiên qua Tây Nguyên vào miền Đông và xuống tận miền Tây Nam Bộ. Sự đan xen liên hoàn đó đã tạo ra mạng lưới hậu phương tại chỗ rộng khắp. Thực tế ở các chiến trường cho thấy bên cạnh nguồn vật-lực được chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc, nguồn hậu cần khai thác từ hậu phương tại chỗ ở miền Nam đã có những đón góp cực kỳ quan trọng.

Từ sau Đồng khởi 1960 cho đến năm 1975, hậu phương tại chỗ ở miền Nam đã bảo đảm 22,5% nhu cầu vật chất cho các lực lượng vũ trang. Nếu tính cả nguồn chiến lợi phẩm và nguồn do bộ đội tăng gia sản xuất được thì tỷ lệ đó lên đến 35%. Về nhân lực, chỉ riêng trong 2 năm (1973-1974), hậu phương tại chỗ đã động viên được 12.000 thanh niên gia nhập quân giải phóng. Năm l973 hậu phương tại chỗ mới huy động được 117.128 du kích thì năm 1975 đã huy động tới 296.184 người.


Trong Tổng tiến công mùa Xuân 1975, hậu phương tại chỗ ở Trị-Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ đã trở thành hậu phương trực tiếp cho các quân đoàn chủ lực. Chỉ riêng ở Tây Nguyên, cuối tháng 2/1975, các LLVT đã có lượng dự trữ 54.000 tấn vật chất các loại, trong đó có 7.286 tấn đạn, 28.600 tấn lương thực, thực phẩm. Lượng dự trữ này đủ cho LLVT Tây Nguyên hoạt động trong cả năm 1975. Chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hậu phương tại chỗ đã huy động được gần 10.000 tấn lương thực, thực phẩm, bảo đảm hơn 50% nhu cầu của các cánh quân tham gia chiến dịch. Động viên hơn 10.000 người thành lập các tiểu đoàn cơ động; huy động gần 4.000 xe vận tải các loại, 656 thuyền máy, l.73 xe đạp thồ, 63.342 dân công phục vụ chiến dịch.


Nhìn vào những số liệu đã được tổng kết có thể thấy trong giai đoạn cuối của cuộc KCCM, trên các chiến trường miền Nam có hơn 80% quân, 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% phương tiện vận tải cơ giới là do nguồn bổ sung từ hậu phương lớn miền Bắc; 77% lương thực, 90% thực phẩm, 61% quân trang là do hậu phương tại chỗ cung cấp.


Những số liệu trên cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của hậu phương lớn miền Bắc và hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong KCCM nói chung, trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói riêng. Điều này càng chứng minh cho sự sáng suốt và tầm nhìn chiến lược của Đảng Lao động Việt Nam 21 năm về trước khi xác định: xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn của cả nước, đồng thời xây dựng các vùng căn cứ ở miền Nam thành hậu phương tại chỗ. Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc và bè lũ tay sai hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.


Đại tá, PGS, TSTrần Ngọc Long,Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

-----

(1) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, H, tr.20.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN