10:22 03/10/2023

Cao tốc Bắc - Nam vẫn còn gặp thách thức về mặt bằng và vật liệu

Trải qua hơn 9 tháng thực hiện, sản lượng thi công 12 dự án thành phần dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông 2021 - 2025 (giai đoạn 2) không ngừng tăng, song các dự án trên vẫn còn nhiều khó khăn; trong đó thách thức lớn nhất là mặt bằng và vật liệu.

Chú thích ảnh
Công trường thi công dự án cao tốc Vân Phong- Nha Trang thuộc Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025. Ảnh tư liệu: Huy Hùng/TTXVN

Đây là nội dung chính tại văn bản báo cáo Quốc hội của Bộ Giao thông vận tải về tình hình triển khai Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2.

Cụ thể, Bộ Giao thông vận tải cho biết, tính đến cuối tháng 9/2023, giá trị hoàn thành dự án đạt hơn 9.300 tỷ đồng, bằng gần 10% giá trị các hợp đồng, cơ bản bám sát kế hoạch đề ra.

Trên toàn dự án, các nhà thầu đã huy động hơn 5.500 thiết bị máy móc, gần 12.800 nhân sự thi công, hơn 330 tư vấn giám sát, tổ chức 567 mũi thi công, gồm: 278 mũi thi công cầu, 279 mũi thi công đường, hầm chui dân sinh và một số công trình trên tuyến.

Về giải phóng mặt bằng, tính đến nay, diện tích mặt bằng đã được bàn giao đạt hơn 657 km, đạt khoảng 91%. Tuy nhiên, mặt bằng có thể thi công mới đạt hơn 600 km, đạt 84%.

Phục vụ giải phóng mặt bằng thi công dự án, có 41.290 hộ dân có đất phải thu hồi. Trong đó, hơn 5.800 hộ phải bố trí tái định cư tại 150 khu tái định cư (147 khu xây mới, 3 khu đã có sẵn). Hiện nay, các địa phương đã hoàn thành 56 khu tái định cư, đang triển khai thi công 91 khu, dự kiến đến hết năm 2023 sẽ hoàn thành.

"Đối với di dời hạ tầng kỹ thuật, các địa phương đang triển khai thi công di dời 77/143 vị trí đường điện cao thế 220 - 500 kV; triển khai di dời 562/1.531 vị trí, hoàn thành 257/562 vị trí đường dây 110 kV và đường dây trung, hạ thế", Bộ Giao thông Vận tải thông tin.

Liên quan đến nguồn vật liệu thi công, Bộ Giao thông vận tải cho biết, đối với 10 dự án thành phần từ Hà Tĩnh đến Khánh Hòa, tổng nhu cầu vật liệu đá cần gần 18 triệu m3 lấy từ 90 mỏ đang khai thác (tổng trữ lượng gần 168 triệu m3), tổng công suất khai thác gần 10,5 triệu m3/năm.

Khả năng cung ứng của các mỏ đang khai thác đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, trữ lượng. Song, một số mỏ vẫn nâng công suất khai thác để đáp ứng tiến độ thi công khi các dự án thành phần triển khai đồng loạt tại một thời điểm.

Về vật liệu cát, tổng nhu cầu cho các dự án khoảng gần 10 triệu m3. Trong đó, khoảng 4,74 triệu m3 được sử dụng từ 77 mỏ đang khai thác với trữ lượng hơn 10 triệu m3. Hồ sơ mỏ vật liệu của dự án đã xác định cần khai thác 4,72 triệu m3 được sử dụng từ 14 mỏ chưa khai thác có tổng trữ lượng gần 12 triệu m3.

Với vật liệu đất, theo tính toán, nhu cầu của 10 dự án thành phần là gần 50 triệu m3. Trong đó, khoảng 2,7 triệu m3 được sử dụng từ 21 mỏ đang khai thác, tổng trữ lượng hơn 10 triệu m3. Hồ sơ mỏ vật liệu đã xác định cần khai thác gần 47 triệu m3 từ 74 mỏ chưa khai thác có tổng trữ lượng hơn 64 triệu m3.

Hiện, các chủ đầu tư, nhà thầu đang phối hợp với chủ mỏ, các đơn vị liên quan thực hiện thủ tục nâng công suất, gia hạn giấy phép các mỏ đang khai thác nhằm bảo đảm nguồn cung cho dự án.

Đối với mỏ mới, giao nhà thầu khai thác theo cơ chế đặc thù, các nhà thầu đã trình 13/14 hồ sơ đăng ký khối lượng khai thác cát, tổng trữ lượng hơn 4,3 triệu m3, 56/72 hồ sơ đăng ký khối lượng khai thác đất, tổng trữ lượng hơn 49 triệu m3.

UBND các tỉnh đã xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 10/13 mỏ cát, 38/56 mỏ đất. Đến nay, nhà thầu đã khai thác được 4 mỏ cát, 14 mỏ đất. Đối với các mỏ đã hoàn thành bản đăng ký khối lượng, các nhà thầu đang thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê đất để khai thác.

Riêng 2 dự án thành phần cao tốc tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long là Cần Thơ - Hậu Giang và Hậu Giang - Cà Mau có tổng nhu cầu vật liệu đá cần 1,35 triệu m3; đất đắp khoảng 1,5 triệu m3 lấy từ các mỏ đang khai thác trong khu vực với khả năng cung ứng đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, trữ lượng, đảm bảo tiến độ yêu cầu.

Riêng về nguồn vật liệu cát, dự án này cần tới 9,1 triệu m3 cát đắp nền trong năm 2023, tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải thừa nhận hiện đang gặp khó khăn về nguồn cung.

Đánh giá toàn bộ tuyến tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long đi qua khu vực nền đất yếu, phải xử lý nền đường và gia tải chờ lún, Bộ Giao thông vận tải cho rằng nếu các địa phương không đẩy nhanh các thủ tục khai thác, cung cấp vật liệu cho dự án, bảo đảm cho các nhà thầu hoàn thành thi công đắp nền đường trước tháng 6/2024, tiến độ dự án rất khó đảm bảo do phải chờ lún với thời gian từ 12-16 tháng.

Quang Toàn (TTXVN)