03:09 22/03/2011

Báo cáo bổ sung tình hình kinh tế- xã hội

Báo cáo bổ sung tình hình kinh tế- xã hội năm 2010 và những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2011


Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các vị khách quý,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa đồng bào cử tri cả nước,


Theo Chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo bổ sung tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2010 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2011. Thay mặt Chính phủ và đồng chí Thủ tướng, tôi xin báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả nước một số nội dung chính về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và những giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010

1. Những kết quả chủ yếu đã đạt được:

Mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội đặt ra cho năm 2010 theo Nghị quyết của Quốc hội là: Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.

Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII, căn cứ vào kết quả 9 tháng đầu năm, Chính phủ đã báo cáo ước tình hình thực hiện kinh tế - xã hội năm 2010. Đến nay, tổng hợp kết quả thực hiện cả năm 2010 cho thấy các mục tiêu đề ra cho năm 2010 về cơ bản đã đạt được, có 16 trong tổng số 21 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; trong đó một số chỉ tiêu đạt kết quả cao hơn so với số đã báo cáo Quốc hội, như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tạo việc làm... Trong bối cảnh năm 2010 còn nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế thế giới phục hồi chậm và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khủng hoảng nợ tại châu Âu lan rộng, thiên tai, bão lũ trong nước ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống, kết quả này thể hiện nỗ lực, cố gắng rất lớn của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân và cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Tôi xin nhấn mạnh một số kết quả nổi bật trong năm 2010 như sau:

Kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2010 đạt 6,78%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội thông qua (6,5%)[1]. Các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu đều tăng cao hơn năm 2009. Trong nông nghiệp, mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh nhưng với sự tập trung chỉ đạo của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, sự nỗ lực cố gắng của bà con nông dân nên kinh tế nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển, an ninh lương thực được bảo đảm, xuất khẩu gạo đạt mức cao nhất từ trước đến nay (6,8 triệu tấn), cung cấp ngày càng nhiều nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Kết quả này cho chúng ta thấy rõ hơn lợi thế của lĩnh vực nông nghiệp trong phát triển kinh tế cũng như trong giải quyết khủng hoảng; đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta tiếp tục nhiệm vụ phải tập trung nhiều hơn nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Các cân đối lớn của nền kinh tế về cơ bản được bảo đảm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 72,2 tỷ USD, tăng hơn 4 lần so với chỉ tiêu Quốc hội thông qua (trên 6%); trong đó đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp vẫn giữ xu hướng tăng dần, đạt 20 tỷ USD. Nhập siêu cả năm 2010 là 12,6 tỷ USD, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu (thấp hơn số báo cáo Quốc hội là 19,8%). Kết quả này cho thấy nếu có biện pháp cụ thể, tổ chức quyết liệt để thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp hỗ trợ, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng hoá chưa thật sự cần thiết (hàng tiêu dùng xa xỉ, hàng trong nước đã sản xuất được và bảo đảm chất lượng, hàng không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm,…) thì mục tiêu kiểm soát nhập siêu năm 2011 và những năm tiếp theo có thể thực hiện được.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt trên 830.000 tỷ đồng, bằng 41,9% GDP (chỉ tiêu Quốc hội thông qua là 39,5% GDP). Trong đó, vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước (không bao gồm khu vực đầu tư nước ngoài) chiếm 36,1%, tăng 24,7% so với năm 2009 (cao hơn mức tăng bình quân chung của tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 17,1%). Đầu tư tăng, nhất là đầu tư khu vực ngoài nhà nước đã góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Tổng giá trị giải ngân ODA đạt 3,5 tỷ USD, tăng 44,2% so với kế hoạch; tổng giá trị vốn ODA được ký kết ước đạt 3,2 tỷ USD, thể hiện sự ủng hộ và tin tưởng của các nhà tài trợ đối với Việt Nam[2]. Nhờ làm tốt công tác cải cách thủ tục hành chính, năm 2010 môi trường kinh doanh ở Việt Nam được tăng trên 10 bậc, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển thuận lợi hơn, số doanh nghiệp đăng ký hoạt động nhiều hơn.

Thu ngân sách nhà nước năm 2010 vượt 21,2% so với dự toán được Quốc hội thông qua; một mặt thể hiện những cố gắng trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước, mặt khác cũng chỉ ra chất lượng của công tác dự báo, dự toán. Nhưng nhờ có tăng thu đã có thêm nguồn để chi bảo đảm các khoản chi an sinh xã hội cấp bách, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, đồng thời dành nguồn để giảm bội chi ngân sách còn 5,6% GDP, giảm 0,6% GDP so với dự toán đã được Quốc hội thông qua. Dư nợ Chính phủ đến ngày 31/12/2010 bằng 44,1% GDP, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP, được kiểm soát trong giới hạn.

An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, chúng ta vẫn dành nguồn lực bố trí tăng thêm cả ở cấp Trung ương và địa phương để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Đã tổ chức tốt việc phòng chống, khắc phục kịp thời, hiệu quả hậu quả thiên tai, dịch bệnh, nhất là triển khai nhiều biện pháp cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả lũ, lụt ở miền Trung; xuất cấp gạo dự trữ không thu tiền cho nhân dân vùng bị thiên tai; hỗ trợ khôi phục cơ sở hạ tầng bị hư hại, đồng thời chỉ đạo nghiên cứu tìm giải pháp lâu dài, cơ bản giúp nhân dân vùng bị thiên tai ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất[3]. Trong điều kiện thời tiết biến động, thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô, tần suất, địa điểm và thời điểm khó lường trước, cần tiếp tục phát huy công tác dự báo, chỉ đạo, điều hành và huy động các nguồn lực trong xã hội thì có thể phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai kịp thời, hiệu quả.

Kết quả giải quyết việc làm năm 2010 và một số năm gần đây đều đạt và vượt chỉ tiêu Quốc hội thông qua, thể hiện nỗ lực, cố gắng lớn của các ngành, các cấp. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, hỗ trợ nhà ở sinh viên, người thu nhập thấp, xây dựng nông thôn mới; cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh, sinh viên, chính sách tiền lương, trợ cấp ưu đãi người có công, trợ cấp cho đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội… đều được xem xét điều chỉnh theo mức phù hợp. Đã triển khai đồng bộ các biện pháp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Nhờ sự nỗ lực của các ngành, các cấp, doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp tạo việc làm, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội, tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 giảm còn 9,45% (giảm 1,85% so với năm 2009).

Quốc phòng, an ninh chính trị được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Trong năm qua, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và khu vực có nhiều biến động, nhưng với sự cố gắng lớn của các lực lượng: quốc phòng, công an, bảo vệ pháp luật, ngoại giao, chúng ta tiếp tục giữ vững và phát triển một bước hệ thống quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ vững hoà bình, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, nhất là trên các vùng biển, đảo, thềm lục địa, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội và niềm tin của nhân dân vào tương lai phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh, kết hợp và phát huy tốt đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân, huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội, nhất là thực hiện thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010; kết quả của hoạt động đối ngoại đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, củng cố và nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

2. Một số hạn chế, yếu kém lớn còn tồn tại:

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, nền kinh tế nước ta năm qua còn một số hạn chế, yếu kém lớn còn tồn tại:

Môi trường kinh tế vĩ mô vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro: Lạm phát tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 tăng 11,75% so với tháng 12/2009, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội thông qua (7%); nhập siêu còn lớn; bội chi ngân sách cao, nợ công có xu hướng tăng; mặt bằng lãi suất cao, tỷ giá chưa ổn định đã ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chất lượng tăng trưởng còn thấp: Quá trình chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành kinh tế và trong nội bộ từng ngành còn chậm, nhất là về chuyển dịch cơ cấu lao động; chất lượng giáo dục, đào tạo, trình độ nhân lực hạn chế, thiếu lực lượng lao động có trình độ tay nghề giỏi; năng suất lao động chưa cao, trình độ khoa học, công nghệ ở nhiều ngành còn lạc hậu, tỷ trọng giá trị gia tăng thấp, sản phẩm có uy tín, có thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn ít; sản phẩm sản xuất trong nước ở một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu hoặc chưa đáp ứng được thị trường tiêu dùng trong nước; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa bảo đảm chất lượng, tình trạng thiếu điện còn trầm trọng đã trở thành những điểm nghẽn của tăng trưởng và phát triển cả trước mắt và lâu dài.

Ô nhiễm môi trường đang trầm trọng, nhất là tại các khu đô thị, công nghiệp, khu chế xuất, các làng nghề. Chế tài xử lý ô nhiễm môi trường còn chưa đủ mạnh và thực thi pháp luật về xử lý các hành vi gây ô nhiễm, nhất là ở một số khu vực, địa phương còn chưa nghiêm. Chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu còn chưa được triển khai có hệ thống, đồng bộ và đang còn là thách thức lớn trong trung hạn và dài hạn ở nước ta.

Thưa Quốc hội, nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá trên tất cả các lĩnh vực quan trọng; kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế về cơ bản ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống người dân tiếp tục được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ lạm phát, bất ổn vĩ mô toàn cầu đã và đang tác động, ảnh hưởng lớn đến nước ta trong điều kiện cơ cấu kinh tế trong nước chuyển đổi chậm, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, tỷ giá chưa ổn định, lạm phát tăng cao, nhất là những tháng cuối năm 2010. Đây là những vấn đề cần đánh giá, dự báo cụ thể tác động, ảnh hưởng để có biện pháp tập trung giải quyết trong năm 2011 và những năm tới.

Thưa Quốc hội,

Tại Kỳ họp Quốc hội lần này, cùng với việc báo cáo bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2010, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, tôi xin được báo cáo bổ sung trước Quốc hội về tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam và việc tổ chức kiểm điểm trách nhiệm tập thể và cá nhân liên quan đến sai phạm tại Tập đoàn.

- Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Phương án tái cơ cấu Tập đoàn, tập trung vào 3 lĩnh vực chính là công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, công nghiệp phụ trợ cho việc đóng và sửa chữa tàu biển, nghiên cứu thiết kế, đào tạo nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân công nghiệp tàu biển với mục tiêu sớm ổn định tổ chức sản xuất kinh doanh, từng bước củng cố uy tín, thương hiệu của Tập đoàn, giảm lỗ, có lãi, trả được nợ, tích lũy và phát triển. Phương án này đang được tích cực triển khai. Theo đó, cơ cấu của Tập đoàn sẽ còn lại Công ty mẹ và 42 công ty thành viên, các đơn vị khác thực hiện rút vốn, chuyển nhượng, cổ phần hóa, giải thể, phá sản để tập trung nguồn lực cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Điều lệ và bổ nhiệm lãnh đạo mới của Tập đoàn, chỉ đạo sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp, tái cơ cấu tài chính, khoanh nợ, giãn nợ, cho vay mới… để duy trì và ổn định sản xuất kinh doanh. Đến nay tình hình đã có những kết quả bước đầu. Nhờ đó, sản xuất kinh doanh đã từng bước ổn định và phục hồi, bàn giao thêm được nhiều tàu cho khách hàng, các tàu vận tải biển đã hoạt động trở lại, việc làm và thu nhập của người lao động được bảo đảm.

Khó khăn thách thức còn nhiều nhưng những kết quả bước đầu cho thấy việc tái cơ cấu theo Kết luận của Bộ Chính trị là đúng hướng. Với tình hình kinh tế thế giới, thị trường vận tải biển, công nghiệp tàu biển hồi phục và sự quyết tâm của Đảng và Chính phủ, nỗ lực của cán bộ công nhân, Tập đoàn sẽ vượt qua được khó khăn, tiếp tục tái cơ cấu, trả nợ và phát triển.

- Thực hiện Kết luận số 81/KL-TW ngày 6/8/2010 và Kết luận số 88/KL-TW ngày 8/11/2010 của Bộ Chính trị về kiểm điểm trách nhiệm của một số tập thể, cá nhân liên quan đến sai phạm tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng được giao nhiệm vụ chủ trì, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ đã kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước và thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu đối với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kết luận và kiến nghị với Bộ Chính trị: Các đồng chí nêu trên có thiếu sót, khuyết điểm nhưng đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và xét thấy chưa đến mức phải thi hành kỷ luật. Bộ Chính trị đã nghe Ủy ban Kiểm tra Trung ương báo cáo kết quả xem xét về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị và cá nhân diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thảo luận thống nhất và đã báo cáo Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X: Trong công tác quản lý nhà nước và thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng và các thành viên Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong xây dựng và phát triển khu vực kinh tế này, góp phần đưa đất nước vượt qua giai đoạn suy giảm, sớm hồi phục và phát triển. Tuy nhiên, với chức năng là chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước đối với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, một số thành viên Chính phủ đã có những thiếu sót khuyết điểm. Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ trên nhiều mặt và bỏ phiếu việc thi hành kỷ luật đối với tập thể và cá nhân các đồng chí có liên quan. Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân. Đồng thời yêu cầu các tập thể và cá nhân liên quan phải nghiêm túc tự phê bình, rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị và không để các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khác xảy ra sai phạm tương tự. Hội nghị Trung ương 14 nhất trí với Báo cáo của Bộ Chính trị.

- Ngoài ra, xin được báo cáo Quốc hội: Thủ tướng Chính phủ đã giao Thanh tra Chính phủ thực hiện thanh tra toàn diện, làm rõ tình hình và sai phạm ở Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam. Đến nay, Thanh tra Chính phủ đã hoàn thành công tác thanh tra, đang tổng hợp tình hình, số liệu, hoàn thiện kết quả thanh tra để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Đối với cá nhân nguyên là lãnh đạo và cán bộ liên quan ở Tập đoàn, Bộ Công an cùng các cơ quan chức năng thi hành pháp luật đã tiến hành điều tra, khởi tố, bắt tạm giam một số cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Đến nay công tác điều tra đang được tiếp tục củng cố chứng cứ để xử lý nghiêm minh, kịp thời, khách quan theo đúng quy định của pháp luật.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011

Bước vào năm 2011, bên cạnh những thuận lợi, đất nước ta phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, lớn hơn so với dự báo cuối năm 2010.

Thuận lợi:

Tiếp theo đà phục hồi tăng trưởng năm 2010, nước ta có những thuận lợi cơ bản. Tăng trưởng GDP quý I năm 2011 ước đạt khoảng 5,5%, tiếp tục duy trì đà tăng trưởng mặc dù tốc độ giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2010[4]. Trong đó, nông nghiệp vẫn giữ xu hướng tăng ổn định; công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trưởng; thu, chi ngân sách nhà nước và vốn đầu tư phát triển tăng khá so với cùng kỳ năm 2010[5]. Xuất khẩu tăng mạnh với tổng kim ngạch ước đạt 18,8 tỷ USD (tăng 29,7% so với cùng kỳ), trong đó xuất khẩu nông sản tiếp tục đà tăng cao cả về sản lượng và giá, nhất là gạo, cà phê, cao su, hạt điều,…

Tình hình chính trị - xã hội ổn định, an sinh xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đại hội Đảng XI đã thành công tốt đẹp, tạo sức mạnh, niềm tin và sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Khó khăn, thách thức:

Tình hình trong nước và quốc tế đã xuất hiện những khó khăn, thách thức mới, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô. Kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng phục hồi nhưng chậm lại và chưa ổn định; lạm phát tăng cao, giá lương thực, thực phẩm, dầu thô và nguyên vật liệu cơ bản tiếp tục tăng[6]. Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi và Trung Đông; thiệt hại nặng nề do động đất và sóng thần ở Nhật Bản ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội khu vực và toàn cầu.

Trong nước, chúng ta tiếp tục gặp phải những khó khăn, thách thức lớn hơn so với năm trước, nhất là lạm phát tăng cao do cộng hưởng của các yếu tố: Lạm phát toàn cầu tăng, nhất là giá lương thực, giá vàng, giá dầu thô; hệ quả của các giải pháp ngăn chặn đà suy giảm kinh tế trong thời gian qua; ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt lớn ở các tỉnh miền Trung. Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao[7] trong điều kiện phải thực hiện chủ trương điều chỉnh giá xăng dầu, giá điện làm cho tình hình càng trở nên khó khăn hơn. Cùng với lạm phát, mặt bằng lãi suất cao, tỷ giá chưa ổn định, giá vàng tiếp tục biến động mạnh, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng, hoạt động sản xuất kinh doanh, gây bất ổn kinh tế vĩ mô và đời sống nhân dân.

Tình hình trên đặt ra thách thức lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 và những năm tiếp theo. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 nhằm tập trung chỉ đạo điều hành kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và hướng đến thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững; đồng thời xác định rõ đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành.

Một là, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng

Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, bảo đảm phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để giảm tốc độ tăng tổng cầu bằng cách giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán, thắt chặt chi tiêu công để từng bước giảm sức ép lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá, kiểm soát được thị trường ngoại tệ và thị trường vàng, cụ thể như sau:

Hạn chế tăng cung tiền, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu tốc độ tăng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16% nhưng vẫn bảo đảm bố trí vốn tín dụng phục vụ yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Triển khai thực hiện có kết quả các giải pháp này thì sức ép lạm phát sẽ giảm, chất lượng tín dụng được nâng cao, đồng thời định hướng được nguồn vốn cho vay các lĩnh vực cần tập trung phát triển để góp phần vừa giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động, vừa đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là lượng tiền cung ứng, các loại lãi suất, tỷ giá, bảo đảm phù hợp với diễn biến của thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối để bình ổn thị trường, tỷ giá, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối; thực hiện các biện pháp phù hợp để các tổ chức, cá nhân, trước hết là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu qua biên giới. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng.

Nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, tín dụng, ngân hàng để bảo đảm các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế lưu thông thông suốt, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tạo điều kiện cho duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện các biện pháp tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định an toàn về tín dụng, ngân hàng theo lộ trình phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế - xã hội nước ta; rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, các tổ chức tín dụng cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn theo hướng an toàn, bền vững; tăng cường kiểm tra, giám sát, cảnh báo sớm rủi ro hệ thống; hỗ trợ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong phòng chống rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống.

Hai là, thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước


Cùng với thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt sẽ giảm tốc độ tăng tổng cầu để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, cụ thể như sau:

Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7 - 8% so với dự toán năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tập trung rà soát các nguồn thu, tăng cường kiểm tra, giám sát quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.

Rà soát, sắp xếp lại chi thường xuyên để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011. Các ngành, các cấp thực hiện các biện pháp tạm dừng không trang bị mới xe ôtô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm, có kế hoạch giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước,...; không bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh cấp bách.

Rà soát, sắp xếp, cắt giảm đầu tư công, tập trung vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, hiệu quả. Trong đó các Bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện các giải pháp: Không ứng trước, không kéo dài thời gian sử dụng vốn, chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án để tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011; kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời, thực hiện giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP, tăng cường quản lý nợ Chính phủ, nợ quốc gia. Tập trung giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn; rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ; bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn tài chính quốc gia.

Ba là, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng

Cùng với việc thực hiện các giải pháp tiền tệ, tài khoá để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm các nguồn lực, năng lượng duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bảo đảm việc làm, thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô cả trước mắt và lâu dài, cụ thể như sau:

Thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh: Tập trung thực hiện các biện pháp kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh và tiếp cận vốn đối với dự án hiệu quả, có đầu ra của sản phẩm, cải cách, giảm thủ tục để tiết giảm chi phí, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng; trong đó tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, bảo đảm an ninh lương thực và tăng xuất khẩu nông sản, bảo đảm đời sống nông dân.

Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu: Phấn đấu năm 2011 nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu (chỉ tiêu Quốc hội thông qua là 18%). Tất cả các cơ quan, đơn vị có dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước phải thực hiện nghiêm chủ trương sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước; xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ, môi trường, hàng xa xỉ, không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.

Tăng cường kiểm soát giá cả, thị trường: Các Bộ, địa phương, cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu tại các thành phố lớn; kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy định pháp luật về giá để bảo đảm việc tăng giá bán hàng phải được giám sát và phải hợp lý, đúng quy định; tăng cường chống đầu cơ, nâng giá và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Sử dụng tiết kiệm năng lượng: Huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với các địa phương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm; đồng thời cung cấp điện đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống. Các ngành, các cấp tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống lãng phí điện; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử dụng điện 10% trong sản xuất và tiêu dùng. Đồng thời, có biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện.

Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước: Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất và các dự án đầu tư, đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.

Bốn là, điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo

Thực hiện điều chỉnh một bước giá điện, giá xăng dầu gắn với việc thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho các hộ nghèo để doanh nghiệp từng bước hạch toán đủ chi phí năng lượng theo nguyên tắc thị trường, khuyến khích đổi mới công nghệ sử dụng ít năng lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư phát triển các dự án phát điện, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện, xăng dầu, đồng thời thực hiện chính sách an sinh xã hội để bảo đảm đời sống của người nghèo[8].

Về điều chỉnh giá điện: Giá điện thời gian vừa qua bằng khoảng 60 - 70% giá thành. Đầu tháng 3/2011, Chính phủ đã điều chỉnh một bước giá điện tăng thêm 165 đồng/kWh (tương đương tăng 15,28%). Đồng thời, thực hiện việc hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo 30.000 đồng/hộ/tháng. Với mức giá này, doanh nghiệp điện chưa có lãi và các khoản lỗ lũy kế trước đây còn lùi lại chờ xử lý sau.

Về điều chỉnh giá xăng dầu: Theo quy định của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu thì giá xăng dầu đã có căn cứ để vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên để thực hiện yêu cầu bình ổn giá trước Đại hội Đảng XI, Tết Nguyên đán Tân Mão nên giá bán xăng tạm thời chưa điều chỉnh. Đợt điều chỉnh giá xăng dầu vừa qua (ngày 24/2/2011) thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước tiếp tục không thu thuế nhập khẩu xăng dầu, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu chưa có lãi nhưng cũng không bị lỗ. Theo đó, giá xăng được điều chỉnh tăng thêm 2.900 đồng/lít và được bán với giá 19.300 đồng/lít (hiện vẫn thấp hơn giá bán của Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia). Với cách điều hành này, khi giá xăng dầu quốc tế ở mức thuận lợi, Nhà nước sẽ tiếp tục giữ giá, điều chỉnh thuế, doanh nghiệp có lãi hợp lý để duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh và tiếp tục thực hiện cơ chế thị trường về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới.

Năm là, tăng cường bảo đảm an sinh xã hội

Thực hiện chủ trương bảo đảm đời sống cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, mặc dù trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Chính phủ tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo, tạo việc làm tại các địa phương, nhất là tại các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh viên,... Tăng cường chỉ đạo phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ. Đồng thời, ưu tiên bố trí kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới và hỗ trợ hộ nghèo khi điều chỉnh giá điện. Chính phủ cũng đang chuẩn bị nguồn lực để tiếp tục điều chỉnh tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, người về hưu và các đối tượng chính sách theo lộ trình đã định.

Vừa qua, khi xảy ra khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi và Trung Đông, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động phối hợp với phía nước ngoài bảo đảm an toàn và đưa toàn bộ người lao động Việt Nam ở Libi về nước; đồng thời có biện pháp để doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và Nhà nước hỗ trợ người lao động từng bước ổn định đời sống. Chính phủ cũng đã chỉ đạo bám sát tình hình và có các giải pháp cần thiết để hỗ trợ, đảm bảo an toàn cho công dân nước ta khi xảy ra thảm họa động đất, sóng thần tại Nhật Bản.

Sáu là, đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền

Xác định rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội trong việc thực hiện và đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn, theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội ở Trung ương và địa phương đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tăng cường chỉ đạo để các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí thông tin, tuyên truyền đầy đủ, kịp thời, nhất là các nội dung lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ các hộ nghèo trực tiếp chịu tác động của việc điều chỉnh giá; đồng thời yêu cầu các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm. Chính phủ cũng yêu cầu xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, tạo đồng thuận xã hội, niềm tin trong nhân dân trong việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.


Thưa Quốc hội,

Thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội vừa là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách trước mắt trong năm 2011, vừa là yếu tố quan trọng để bảo đảm ổn định và phát triển bền vững trong dài hạn.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức mới, với sự quyết tâm cao, đoàn kết, đồng thuận về tư tưởng, nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ thực hiện thành công mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội để hướng đến phát triển bền vững.

Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào trong cả nước tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác để phấn đấu thực hiện cao nhất Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, tạo tiền đề thuận lợi để thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội./

--------------------------------------------------------------------------------


[1] Tốc độ tăng GDP tăng dần qua các quý trong năm 2010: Quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Nhờ đó, tốc độ tăng GDP bình quân cả năm 2010 đạt 6,78%, năm 2009 chỉ đạt 5,38%.


[2] Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2010, cộng đồng các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam 7,9 tỷ USD.

[3] Tổng số tiền ngân sách nhà nước đã chi cho công tác phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh trong năm 2010 khoảng 5.700 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương chi khoảng 4.500 tỷ đồng; ngoài ra, đã xuất dự trữ quốc gia cấp không thu tiền trên 81.400 tấn gạo để cứu trợ nhân dân vùng thiếu đói giáp hạt, bị thiệt hại do thiên tai và cấp hàng trăm nghìn liều vắcxin phòng chống dịch bệnh gia súc,...

[4] Tốc độ tăng trưởng GDP quý I năm 2011 ước đạt 5,4 - 5,6%; trong khi đó quý I năm 2010 tăng 5,83%, quý IV năm 2010 tăng 7,34%.

[5] Thu ngân sách 2 tháng đầu năm tăng 17,6%, chi ngân sách tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2010. Vốn đầu tư phát triển quý I năm 2011 ước tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2010.

[6] GDP toàn cầu dự báo tăng 4,5% năm 2011 so với 5% năm 2010. Lạm phát toàn cầu tăng thêm 1 - 2% so với năm 2010, các nước đang phát triển tăng 6%, Trung Quốc tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ. Giá dầu thô tăng trên 100 USD/thùng; giá lương thực tăng khoảng 20 - 30%.

[7] Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1/2011 tăng 1,74%, tháng 2 tăng 2,09%, tháng 3 ước tăng 2,2%. Quý I năm 2011 ước tăng 6%.

[8] Giá xăng dầu, giá điện chưa thực hiện theo cơ chế thị trường, Nhà nước phải bù lỗ. Giá điện thấp hơn giá thành. Giá xăng dầu 16.400 đồng/lít, thấp hơn khu vực (giá bình quân một số nước trong khu vực là 1 - 1,2 USD/lít tương đương 22.000 - 26.000 đồng/lít).