* Nhiệm kỳ của Tổng thống Mỹ
Hiến pháp Mỹ qui định, Tổng thống mới đắc cử sẽ nhậm chức vào trưa ngày 20/1 của năm sau đó; nhiệm kỳ của Tổng thống cũ cũng chấm dứt vào thời điểm đó. Lễ nhậm chức Tổng thống được tiến hành tại Nhà Trắng ở thủ đô Oasinhtơn.
Mỗi nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ kéo dài 4 năm, và theo điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp được thông qua ngày 27-2-1951, mỗi Tổng thống chỉ có thể được đảm nhiệm chức vụ này không quá hai nhiệm kỳ. Trên thực tế trước khi có quy định này, trong lịch sử Mỹ chỉ có một người đắc cử Tổng thống 3 nhiệm kỳ liền là Franklin Roosevelt làm Tổng thống 12 năm liên tiếp từ 1933 đến 1945; 4 người đắc cử 2 nhiệm kỳ là Dwight D.Eisenhower (1952-1959), Richard Nixon (1969-1975), Ronald Reagan (1980-1987), Bill Clinton (1992-2001), George Walker Bush (2001-2009).
* Quyền lực của Tổng thống Mỹ
Theo Hiến pháp Mỹ, Tổng thống đảm nhiệm hai chức năng, vừa là người đứng đầu Nhà nước (giống như Vua hay Tổng thống của nhiều nước khác) vừa là người đứng đầu ngành hành pháp (giống như Thủ tướng của các nước khác).
Trong vai trò là người đứng đầu Nhà nước, Tổng thống Mỹ đại diện cho nước Mỹ ở cả trong lẫn ngoài nước. Với tư cách này, Tổng thống phải thực hiện hàng loạt nhiệm vụ lễ tân, như tiếp nhận thư ủy nhiệm của đại sứ các nước khác, chủ trì các bữa tiệc khánh tiết, khai mạc một số hoạt động văn hoá nghệ thuật và thể thao quan trọng.
Trong vai trò là người đứng đầu ngành hành pháp, Tổng thống Mỹ cũng đồng thời là Tổng tư lệnh các lực lượng lục quân, không quân, hải quân và lực lượng dự bị ở một số bang, có quyền điều hành Lực lượng quốc phòng của mỗi tiểu bang.
- Về mặt hành pháp, theo Hiến pháp Mỹ, mục I, điều II, quyền hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống; Tổng thống là người đứng đầu Chính phủ. Hiến pháp tuy không xác định rõ chức năng hành pháp của Tổng thống bao gồm những gì, nhưng cũng chỉ ra một số nhiệm vụ cụ thể của Tổng thống như: Ký kết các hiệp định; Bổ nhiệm Đại sứ, Bộ trưởng, cố vấn, Thẩm phán Toà án Tối cao và các quan chức cao cấp khác của chính quyền liên bang; Thông báo về tình hình liên bang cho hai viện của Quốc hội và kiến nghị về một số dự luật.
Tổng thống cũng có quyền đề ra các điều lệ, quy định và chỉ thị gọi là Mệnh lệnh hành pháp (Executive order), có hiệu lực giống như luật của các cơ quan Liên bang mà không cần phải thông qua Quốc hội.
- Về mặt lập pháp, Tổng thống có quyền phủ quyết bất cứ đạo luật nào từ Quốc hội, trừ khi có hơn 2/3 số nghị sĩ trong mỗi viện bác bỏ phủ quyết.
Bên cạnh quyền phủ quyết, Tổng thống còn có trách nhiệm kiến nghị về một số dự luật để Quốc hội xem xét. Kiến nghị về dự luật của Tổng thống thường được thể hiện trong thông điệp liên bang đầu năm, trong dự thảo ngân sách và trong những kiến nghị cụ thể.
- Về mặt tư pháp, Tổng thống có quyền bổ nhiệm các quan toà Liên bang, kể cả các thẩm phán trong các Toà án tối cao, nhưng phải được Thượng nghị viện chấp thuận. Tổng thống có quyền huỷ bỏ bản án hoặc ân xá cho bất cứ ai phạm luật Liên bang.
Tổng thống Mỹ còn được coi là nhà lãnh đạo tượng trưng cho chính đảng của mình. Các chương trình, các sáng kiến mà Tổng thống đưa ra thường phản ánh quan điểm của đảng mà ông là thành viên.
Tổng thống được coi là tiêu điểm của nền chính trị Mỹ. Tổng thống có quyền lực rất lớn trong lĩnh vực đối ngoại và quân sự, nhưng thường không mạnh trong các quyết sách về đối nội, vì còn phải tùy thuộc vào Quốc hội. Tổng thống thường chỉ đạt được những mục tiêu về chính sách đối nội khi ông ta thuyết phục được Quốc hội và các chính đảng rằng lợi ích của họ trong trường hợp này là tương đồng.
Nếu Tổng thống, Phó Tổng thống phạm tội phản quốc, tội nhận hối lộ, hay các tội nghiêm trọng khác, Hạ nghị viện là cơ quan có quyền luận tội Tổng thống và Phó Tổng thống (và cả các viên chức cấp cao khác). Thượng nghị viện là cơ quan có quyền xét xử Tổng thống và Phó Tổng thống.
Trong lịch sử nước Mỹ, đã có 2 Tổng thống bị luận tội, nhưng đều vượt qua được, đó là Tổng thống Andrew Johnson và Tổng thống Bill Clinton. Ngoài ra, còn có Tổng thống Richard M. Nixon đã từ chức trước khi bị luận tội vì vụ bê bối Watergate.
* Lương và tiêu chuẩn chế độ của Tổng thống Mỹ
Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống sẽ nhận được một khoản tiền lương cho công việc, khoản này sẽ không tăng và cũng không giảm trong suốt nhiệm kỳ.
Trong lần họp đầu tiên, Quốc hội Mỹ đã quyết định trả lương cho Tổng thống Geoger Washington mỗi năm 25.000 USD, đây là một số tiền khá lớn vào thời điểm đó. Nhưng ông Washington đã từ chối số tiền lương này vì ông là một người rất giàu có.
Hiện nay, lương của Tổng thống Mỹ là 400.000 USD/năm (chưa đóng thuế, tương đương khoảng gần 6,5 tỷ VNĐ); trợ cấp công tác 50.000 USD/năm cho chức vụ (không phải đóng thuế); được hưởng 100.000 USD cho chi phí du lịch, và 19.000 USD cho chi phí tiếp khách chính thức (cả hai khoản này đều không chịu thuế).
Ngoài lương bổng, Tổng thống Mỹ còn được các tiêu chuẩn chế độ khác như:
- Trong lúc đi công du theo đường hàng không, Tổng thống có văn phòng trên một số máy bay Boeing 747 được thiết kế đặc biệt dành cho mình (hiện có 2 chiếc). Chỉ riêng Tổng thống được dùng tín hiệu “Không lực Một” (Air Force One), nghĩa là khi Tổng thống có mặt trên chiếc máy bay nào trong số các máy bay chuyên dụng của lực lượng không quân đang chở Tổng thống, thì chiếc máy bay đó sẽ được gọi là “Không lực Một”. Tín hiệu này dùng để các trạm kiểm soát lưu không phân biệt chiếc máy bay của Tổng thống với các máy bay khác.
Một chiếc Boeing 747 được thiết kế đặc biệt dành cho Tổng thống Mỹ. Ảnh Internet. |
Khi Tổng thống dùng trực thăng (Tổng thống thường dùng trực thăng của hải quân), chiếc trực thăng này sẽ được gọi là “Hải quân Một” (Marine One, cũng còn gọi là Thuỷ quân Lục chiến Một).
- Khi Tổng thống đi đường bộ, Tổng thống có một chiếc Limousine Cadillac bọc thép, cả cửa kính và bánh xe đều chống đạn, với hệ thống điều hoà không khí đặc biệt để đề phòng trường hợp bị tấn công bằng vũ khí sinh học hoặc hoá học.
Tổng thống được sử dụng Trại David tại Mariland để tiếp đãi các quan khách quan trọng nước ngoài.
- Sau khi rời chức vụ, Tổng thống cùng gia đình được Cơ quan Mật vụ bảo vệ tối đa thêm 10 năm nữa (kể từ thời Tổng thống G.Bush). Trước đó, tất cả các cựu Tổng thống và gia đình của họ đều được bảo vệ cho tới khi Tổng thống qua đời; đồng thời được Cục quản lý Văn thư và Hồ sơ Quốc gia cấp kinh phí đề thành lập Thư viện Tổng thống.
Bắt đầu vào năm 1959, tất cả các cựu Tổng thống còn sống được nhận tiền lương hưu, một văn phòng làm việc và một ban nhân sự. Tiền lương hưu của các cựu Tổng thống đã được tăng nhiều lần với sự chấp thuận của Quốc hội.
Ban Tư liệu/TTXVN